Phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân hại lúa

I. Sâu cuốn lá:

1. Đặc điểm: Có 3 loài sâu cuốn lá nhỏ hại lúa chủ yếu ở Việt Nam là Cnaphalocrocis medinalis, Marasmia exigua và M.patnalis. Trứng sâu cuốn lá nhỏ đẻ rải rác trên lá, thường là mặt dưới và cạnh gân chính giữa. Sâu non nhả tơ cuốn dọc lá lúa thành một bao thẳng đứng hoặc bao tròn. Sâu nằm trong bao tổ ăn phần biểu bì mặt trên, diệp lục và không ăn biểu bì mặt dưới lá, dọc theo gân lá, tạo thành những vệt trắng dài. Sau khi qua giai đoạn sâu non, sâu hóa nhộng kéo dài 5 - 7 ngày rồi vũ hóa trưởng thành (còn gọi là ngài). Đặc điểm của ngài sâu cuốn lá nhỏ là có tính hướng sáng mạnh, thường bay vào đèn. Ngài thường bay đến các ruộng gần bờ mương, đường đi, vườn, nhà ở, vì thế việc phát hiện sâu cuốn lá nhỏ không khó. Sâu cuốn lá nhỏ thường xuất hiện khi thời tiết có nắng mưa xen kẽ, nhiệt độ từ 24 - 29 độ C. Mỗi sâu non có thể gây hại từ 5 - 9 lá, chúng có thể di chuyển từ lá này sang lá khác, thời gian di chuyển thường diễn ra từ 17 - 21 giờ. Sâu có thể phá hại suốt ngày đêm, nên tốc độ gây hại rất nhanh, nếu chủ quan sẽ không kịp cứu vãn.

2. Biện pháp phòng trừ: Thường thì việc phun thuốc trừ sâu cuốn lá nhỏ của nông dân hiệu quả không cao. Ngoài thói quen phòng trừ muộn, đến khi đã thấy trắng lá mới phun (tuổi 3 - 5) thì có một quan điểm sai lầm mà nông dân thường mắc phải là xử lý các nhóm thuốc không chọn lọc ở giai đoạn lúa đẻ nhánh đã làm giảm mật độ thiên địch và sử dụng các thuốc dòng tiếp xúc khi sâu đã chui vào tổ hoặc đã tự cuốn tổ (tuổi 2-3).

Để xác định chính xác thời điểm xử lý thì cần biết vòng đời sâu cuốn lá nhỏ kéo dài trong khoảng từ 25 - 30 ngày. Sau khi thấy trưởng thành ra rộ thì sau từ 4 - 5 ngày sẽ có sâu tuổi 1. Mỗi tuổi kéo dài khoảng 3 ngày, nghĩa là sau khi thấy trưởng thành ra rộ thì sau 4 - 7 ngày là thời điểm phòng trừ thích hợp nhất. Nếu xác định được ngày xuất hiện lứa trước, thì lứa sau sẽ xuất hiện sau 25 - 30 ngày sau đó. Ở giai đoạn đẻ nhánh nếu đã bị hại trắng lá (sâu đã tuổi 4 - 5) thì không nên phòng trừ nữa mà sau đó 2 tuần phòng trừ là thích hợp nhất. Xử lý khi sâu tuổi 1 - 2, vì tuổi lớn hơn phòng trừ sẽ không hiệu quả do lúc đó sâu đã vào tổ thuốc sẽ không tiếp xúc được với sâu.../.


Lúa bị bông bạc do sâu đục thân gây hại. Ảnh: minh họa

II. SÂU ĐỤC THÂN HAI CHẤM

1. Đặc điểm: Thời kỳ mạ hoặc đẻ nhánh, sâu đục qua bẹ phía ngoài vào đến nõn giữa phá hại làm cho dảnh lúa bị héo, thời kỳ sắp trỗ hoặc mới trỗ, sâu  đục qua lá bao của  đòng chui vào giữa rồi bò xuống đục ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạch dẫn dinh dưỡng làm cho bông lép trắng.

Sâu trưởng thành có màu trắng vàng hoặc vàng nhạt,  cánh trước mỗi bên có một chấm đen rất rõ, phía cuối bụng có chùm lông màu vàng. Khi đậu có hình khum như mái nhà.Trứng đẻ thành ổ,  hình bầu dục, trên mặt ổ trứng có phủ lớp lông màu vàng nhạt;  Sâu non màu trắng sữa - vàng nhạt. Sâu non tuổi 1 đầu có màu đen, tuổi 2 đến tuổi 5 có màu nâu;Nhộng màu nâu nhạt, mầm chân sau dài tới hết đốt bụng thứ 5 ở nhộng cái, tới đốt bụng thứ 8 ở nhộng đực.

 Ở nhiệt độ 26 - 300C, vòng đời sâu đục thân hai chấm từ  40 – 50 ngày, thời gian đẻ trứng: 7 ngày; sâu non 25 - 33 ngày; nhộng: 8 - 10 ngày; sâu trưởng thành sống: 3 ngày. Sâu trưởng thành thường vũ hoá vào ban đêm, ban ngày ngày nấp dưới khóm lúa rậm rạp gần mặt nước. Thời gian hoạt động mạnh từ 19 - 20 giờ (đối với ngài cái) và 23 - 1giờ ngày hôm sau (đối với ngài đực). Ngài có xu tính bắt ánh sánh mạnh. Sau khi vũ hoá thì ngay trong đêm ngày có thể giao phối. Sau giao phối, đêm thứ 2 có thể bắt đầu đẻ trứng, có thể đẻ từ  2 - 6 đêm liền, nhiều nhất là đêm thứ 2 và thứ 3. Mỗi  trưởng thành  cái có thể đẻ từ 1 - 5 ổ trứng, số lượng trứng của mỗi ổ có thể thay đổi từ 53 - 217 quả tuỳ theo lứa.

 Sâu non có tập quán hoá nhộng trong gốc thân lúa dưới mặt đất 1-2 cm. Trước khi hoá nhộng sâu đục sẵn một lỗ ở thân lúa chừa lại một lớp biểu bì mỏng để khi vũ hoá chui ra. Lứa 2 là lứa cuối trong vụ đông xuân và cũng là lứa sâu quan trọng nhất về mặt số lượng, mức độ gây hại và là nguồn sâu chuyển từ vụ chiêm xuân sang vụ mùa; Lứa 3 là lứa đầu tiên trong vụ mùa, thường tập trung phá trên mạ mùa sớm, đây là lứa sâu bắc cầu từ lúa đông xuân sang lúa mùa; Lứa 4 gây hại trên lúa mùa sớm; Lứa 5 gây hại trên lúa mùa chính vụ và mùa muộn.

2.  Biện pháp phòng trừ: Cày lật gốc rạ kèm theo ngâm nước, làm dầm kịp thời (đặc biệt đối với lúa vụ mùa sau khi gặt); Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ; Bón phân cân đối giữa các loại phân theo quy trình kỹ thuật bón được quy định cho từng vụ, từng chân đất, từng giống lúa. Hạn chế sử dụng phân đạm quá liều lượng và bón không đúng cách tạo nên tình trạng lúa lốp hoặc đẻ lai rai, sâu có thể phá hoại. Nếu đều kiện tưới tiêu chủ động có thể điều chỉnh mực nước ở ruộng để diệt sâu; Phát huy tác dụng của nhóm thiên địch, nhất là ong ký sinh trứng; Dùng bẫy đèn bắt bướm khi bướm rộ; Thường xuyên theo dõi mật độ sâu trên đồng ruộng. Chỉ phun thuốc khi đến quá ngưỡng phòng trừ:  giai đoạn đẻ nhánh: 0,5 ổ trứng/m2; đòng già -  bắt đầu trỗ: 0,3 - 0,5 ổ trứng/m2; Phun thuốc nên tiến hành khi lúa trỗ 3 - 5% hoặc phun lần 2 vào lúc lúa hé đòng và sau đó 5 ngày cho hiệu quả cao nhất. Các loại thuốc sử dụng để phòng trừ sâu đục thân hiện nay: Tasodant 600EC, Prevathon 5SC, Wavotox 600EC, Winter 635EC, Virtako 40WG, Vitashield Gold 600EC,......